Phát huy thành quả của Cách Mạng tháng Tám năm 1945 trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam

image001Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Phát huy những thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, dân tộc Việt Nam tiếp tục giành được những thắng lợi vẻ vang trong tiến trình lịch sử.

 

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Phát huy những thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, dân tộc Việt Nam tiếp tục giành được những thắng lợi vẻ vang trong tiến trình lịch sử.


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – Sự kiện trọng đại của phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” mà còn  góp phần cùng nhân dân thế giới đánh bại chủ nghĩa phát-xít, mang lại hòa bình cho nhân loại; là thắng lợi đầu tiên của một dân tộc thuộc địa dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đã giành được chính quyền về tay nhân dân. Sự kiện trọng đại này mở ra thời kỳ mới cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX, “một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là một cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa”(1); phá tan một mắt xích quan trọng và thúc đẩy sự tan rã của hệ thống thuộc địa, mở đầu cho quá trình sụp đổ không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần của nhân dân các nước bị áp bức đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do.

Tầm vóc và ý nghĩa lịch sử lớn lao của Cách mạng Tháng Tám đối với tiến trình lịch sử của dân tộc và thế giới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(2).

Đó là thành quả của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh; sự khẳng định bằng thực tiễn lịch sử về tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc – “con đường cách mạng vô sản”, con đường cách mạng gắn kết một cách tất yếu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dòng chủ đạo xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám đã để lại nhiều bài học lịch sử vô cùng quý giá cho cách mạng Việt Nam trong tiến trình phát triển. Đó là bài học về xác định con đường cách mạng – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xác định đúng đắn những nhiệm vụ trọng yếu trong các thời kỳ cách mạng; bài học về phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phát huy ý chí tự lực tự cường của toàn dân tộc; bài học về chủ động chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, về nghệ thuật chủ động thúc đẩy và chớp thời cơ, kiên quyết hành động khi thời cơ đến,…

Phát huy thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám vào công cuộc đổi mới hiện nay
Phát huy thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám kết hợp với sức mạnh của chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tạo nên hợp lực to lớn, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954). Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước.

Hai mươi mốt năm kiên cường kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng mà Đảng đã vạch ra, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối.

Sau 30 năm kháng chiến thành công, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm đầu, đất nước ta phải đương đầu với những thách thức, khó khăn chồng chất: hậu quả nặng nề của chiến tranh chưa được khắc phục, thì lại vừa phải tiến hành cuộc chiến đấu mới để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, vừa phải chống lại sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, vừa phải tiếp tục tìm tòi, khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam trong điều kiện mới. Cùng với những khó khăn khách quan, còn có những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo, quản lý và cơ chế, chính sách,  khiến cho kinh tế – xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Đứng trước yêu cầu của lịch sử, nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế  – xã hội, khi đổi mới đã trở thành vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với dân tộc, bằng bản lĩnh chính trị đã được tôi luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tự phê bình và phê bình sâu sắc, nhận thức lại con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội, lắng nghe, tập hợp ý kiến, nguyện vọng và trí tuệ của nhân dân để hoạch định đường lối đổi mới đất nước tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986).

Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và cục diện thế giới mới. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã không ngừng nỗ lực, tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và 20 năm sau, từ thực tiễn của đất nước, Đảng đã hoạch định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) – là bước phát triển nhận thức, lý luận quan trọng trong tiến trình đổi mới đất nước.

Sau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phát huy cao độ truyền thống Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hệ thống chính trị được củng cố vững chắc, trong đó việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đạt nhiều thành quả cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác đối ngoại được triển khai sâu rộng, có hiệu quả theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế. Vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Năm 2008, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, đất nước ta đã vượt qua được những thách thức gay gắt, đặc biệt vào thời điểm khó khăn bởi tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và thế giới, tiếp tục đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh, với mức tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 11 lần so với thời kỳ trước đổi mới. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Lĩnh vực văn hóa – xã hội đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống của trên 86 triệu người dân Việt Nam, trong đó hơn 70% sống ở nông thôn, đã được cải thiện đáng kể. Đặc biệt thành quả về xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2% – 3% và cứ 10 năm giảm còn một nửa. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi (năm 1990) lên 73 tuổi (năm 2010). Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm gần 3 lần; tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm khoảng 6 lần,… Trong bộn bề khó khăn, giáo dục – đào tạo đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận: hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 2000, phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên toàn quốc năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 9 lần trong 25 năm qua. Hệ thống chính sách ưu đãi người có công với cách mạng không ngừng được hoàn thiện. Các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”,… có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành và toàn xã hội, công tác chăm sóc người có công với cách mạng trở thành một phong trào rộng khắp. Tính đến nay, cả nước có trên 8,8 triệu đối tượng người có công, chiếm gần 10% dân số, trong đó, có trên 1,1 triệu liệt sĩ  gần 50.000 bà mẹ được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên 780.000 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh. Tất cả những điều đó thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước cách mạng và đạo lý truyền thống của người Việt Nam.

Nhà nước cách mạng – thành quả vĩ đại nhất của Cách mạng Tháng Tám 1945 – đã thể hiện sự trưởng thành vượt bậc. Từ nhà nước dân chủ nhân dân đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước cách mạng Việt Nam, cả về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi ảnh hưởng, phương thức và tổ chức hoạt động, tính hiệu lực, hiệu quả. Phát huy tinh thần tiến công của Cách mạng Tháng Tám, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, để đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vận dụng bài học của Cách mạng Tháng Tám về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khai thác và kết hợp với sức mạnh của thời đại trong công cuộc đổi mới, nhiệm vụ ưu tiên của đường lối đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ góp phần đưa Việt Nam phát triển theo hướng nhanh và bền vững, nâng cao vị thế đất nước. Bằng sự nỗ lực của cả dân tộc để khẳng định với thế giới: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hiện thực hóa theo chủ đề lớn và xuyên suốt trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó cũng chính là những nhiệm vụ căn cốt của toàn Đảng, toàn dân ta, được thấm sâu trong từng quyết sách và hành động của Đảng và Nhà nước, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. 
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám trong hơn 65 năm qua, đặc biệt là hơn 25 năm đổi mới đất nước chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, dân tộc Việt Nam đang bước vào thời kỳ cách mạng mới, trong bối cảnh quốc tế có những thay đổi rất nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn, diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng,… chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị, xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia,…

Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế tạo cho Việt Nam vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cũng như những khó khăn, thách thức gay gắt khi bước vào thời kỳ cách mạng mới. Bối cảnh quốc tế và thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục phát huy thành quả vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Với tinh thần khách quan, đầy bản lĩnh của một đảng được trải nghiệm qua đấu tranh cách mạng, có bề dày truyền thống lịch sử vẻ vang, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, khiếm khuyết là “công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(3). Đồng thời, Đảng chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(4). Do vậy, Đảng xác định “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”(5), coi đó là nội dung “trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất” trong một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Đó cũng chính là hành động thiết thực để bảo vệ và phát huy thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhằm: “tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng”(6).

Với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, được lý luận Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, với một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách, mang tầm vóc lịch sử và thời đại trong thế kỷ XX như dân tộc Việt Nam, với trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và khát vọng vươn lên mãnh liệt của mọi tầng lớp nhân dân, chúng ta có đầy đủ cơ sở để vững tin vào tiền đồ tươi sáng của đất nước./.

______________
(1) Thomas Hodgkis: Thế giới bàn về Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, t. 2, tr. 224
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 159
(3), (4), (5), (6) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 21 – 22, 22, 26, 26 – 27

Trần Thị Thu Hương PGS, TS, Học viện Chính trị –
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Theo Tạp chí Cộng sản